Đồng chí Mai Văn Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh
ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, gặp gỡ, trò chuyện với nhân dân làng Miềng, xã
Phúc Thịnh, huyện Ngọc Lặc (tháng 6-2013). Ảnh: Ngọc Hải
Con
người Việt Nam một lòng nồng nàn yêu nước, đề cao tinh thần dân tộc,
giàu tình thương yêu, nhân ái, chan hòa. Song, bấy nhiêu phẩm chất quý
đều bị chôn vùi dưới vũng bùn nô lệ tăm tối, cùng cực. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đã thắp lên “trái tim Đankô”, soi đường cho dân tộc ta
“rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, tìm lại phẩm giá làm người trong lòng một
đất nước tự do. Đó là phép màu được tạo ra từ cây đũa thần của ý Đảng –
lòng dân!
Ý Đảng
và lòng dân, hai giá trị cao cả cùng tồn tại trong một dân tộc Việt Nam
duy nhất. Hai giá trị ấy gặp nhau và hòa quyện khăng khít - “Dân là dân
Đảng, Đảng là Đảng dân”. Dân là lực lượng – động lực của Đảng, của cách
mạng và Đảng là người dẫn đường, người lãnh đạo quần chúng làm cách
mạng. Bởi vậy, khẳng định ý Đảng hợp lòng dân cũng chính là nhấn mạnh
đến hai nhân tố cấu thành và quyết định nhất đến mọi sự thành công của
cách mạng. Đó cũng đồng thời là “bộ khung” cần được thường xuyên bồi đắp
cho bền vững để cơ thể - đất nước - luôn phát triển khỏe mạnh và thịnh
vượng.
Xuyên
suốt bề dày lịch sử dân tộc, qua nhiều triều đại phong kiến quân chủ, có
thể thấy rằng “mệnh trời” và “lòng dân” là hai nhân tố quyết định nhất
đến sự hưng vong của mỗi vương triều. Cho nên, dựa vào sức dân để đánh
đuổi kẻ thù, giữ gìn bờ cõi, xây dựng giang sơn đã trở thành truyền
thống, với những pho kinh nghiệm quý báu từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê.
Đảng ta ra đời không bởi “mệnh trời” nào, mà là đòi hỏi bức thiết của
hoàn cảnh lịch sử và đời sống xã hội đã tạo cơ sở để nhen nhóm lên “mầm
đỏ cách mạng”. Kế thừa truyền thống ngàn năm của cha ông, đồng thời
giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, Đảng ta đã tập hợp được quần chúng,
quy tụ được lòng người và cũng dựa vào đó để nhanh chóng trưởng thành.
Sức
mạnh từ ý Đảng, lòng dân không phải là một “lý thuyết đẹp”. Đó là chân
lý của thực tiễn đã được minh chứng. Vì sao một Đảng mới 15 tuổi có thể
lãnh đạo cách mạng thành công? Câu hỏi ấy sẽ không thể trả lời tường
minh nếu không soi vào cội nguồn là ý Đảng, lòng dân. Nhìn lại cuộc Cách
mạng Tháng Tám để một lần nữa thấy hết tầm vóc và giá trị không gì thay
thế của nó, cũng đồng thời để thấy sự sáng suốt, khôn khéo của Đảng khi
đã tổng động viên được tuyệt đại quần chúng “đem sức ta mà giải phóng
cho ta”. Người ta vẫn nói, mỗi sự thành công không phải kết thúc mà là
sự khởi đầu. Thắng lợi của cách mạng mùa thu năm ấy đã chứng minh rằng,
một dân tộc nô lệ nhỏ bé có thể đứng lên, tự giải phóng mình, làm chủ
vận mệnh mình thì không có gì là không thể. Thực tế là, sau mốc son
1945, dân tộc ta đã giành về những mùa xuân đại thắng để thống nhất non
sông.
Với
quyết tâm không gì lay chuyển “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, cùng với nhân dân cả nước, Thanh
Hóa trở thành hậu phương lớn cho các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc,
Thượng Lào. Đặc biệt, với chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hóa đã “góp
sức” tới gần 5.000 tấn gạo, gần 550 tấn thực phẩm. Có những thời điểm,
để đủ lương thực cho tiền tuyến, nhân dân trong tỉnh đã phải “dốc bồ” và
nông dân khắp nơi ra đồng cắt tỉa từng bông lúa chín. Trong kháng chiến
chống Mỹ, Thanh Hóa còn là mảnh đất chia lửa cho các chiến trường từ
Bắc vào Nam... Nhiều người có thể cho rằng, bởi Thanh Hóa vốn là mảnh
đất anh hùng, người dân giàu đức hy sinh; bởi đây là đất cố hương, đất
quý hương của nhiều triều đại phong kiến nên người dân giàu lòng yêu
nước và tự tôn dân tộc. Đúng, nhưng sẽ là chưa đủ nếu không đề cập đến
một duyên cớ sâu xa, đó là lòng tin. Nhân dân ta tin vào ngày thắng lợi
cũng chính là đặt niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Khi ý Đảng hợp lòng dân thì mỗi lời động viên cũng giống như một lời
hiệu triệu!
Độc
lập, tự do, hạnh phúc có lẽ không tự nhiên mà nằm ngay dưới Quốc hiệu
của Việt Nam. Đó là mối quan hệ hữu cơ, không tách rời. Có độc lập mà
nhân dân không hạnh phúc, tự do thì độc lập sẽ chẳng hề có ý nghĩa. Xây
dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân là mục tiêu, là lý tưởng cao
nhất cho mọi sự tự do và hạnh phúc. Đường đến bến bờ tươi sáng ấy sẽ còn
vô vàn những gập ghềnh, đòi hỏi Đảng phải vững tay chèo và lòng dân
phải ví như con nước hiền hòa.
Mọi mối
quan hệ, dù khăng khít đến mấy cũng sẽ có nút thắt. Để ý Đảng, lòng dân
cùng chung một con đường, có nhiều giá trị cần bồi đắp và nhiều hệ lụy
phải loại bỏ giống như tháo các nút thắt, có cả vô hình lẫn hữu hình. Đó
là sự công phá ngày càng khốc liệt của vật chất, danh lợi, tiền tài đến
các giá trị tinh thần, nhân văn của dân tộc; là sự trỗi dậy của cái tôi
cá nhân vị kỷ đang ngấm ngầm gặm nhấm cái Ta cộng đồng trong con người,
trong đó có cả những đảng viên của Đảng... Để tháo được những nút thắt
tự bên trong ấy, thiết nghĩ cũng cần đến cả một cuộc cách mạng và đương
nhiên phải có hy sinh. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã nêu lên tính
“cấp bách” trong xây dựng Đảng hiện nay. “Không thể chậm trễ” hay “phải
giải quyết gấp” là hàm nghĩa của từ ấy, cũng đồng thời cho thấy Đảng ta
đang quyết tâm “làm mới” lại mình, theo tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật”. Bởi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một Đảng mà giấu
giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”.
Không
gì đáng sợ bằng sự giảm sút niềm tin của dân vào Đảng. Đó cũng ví như sự
đứt gãy của xương thịt trong cơ thể hay như cái cây tự bật gốc khỏi mặt
đất vậy. Cho nên, chỉ khi dám thừa nhận và sửa chữa khuyết điểm, khi ấy
Đảng ta mới càng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”, cũng như
giữ gìn được cái gốc vững bền của mình là lòng dân. Nghị quyết Trung
ương 4 ra đời trong hoàn cảnh hiện nay, thiết nghĩ là hợp với nguyện
vọng của nhân dân ta là Đảng mạnh để lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN đi đến
thành công.
Trong
chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ”, được viết ngày 5-11-1946, Hồ Chủ
tịch kêu gọi toàn thể đồng bào ta “Cố ráng sức qua khỏi mùa đông lạnh
lẽo thì ta sẽ gặp mùa xuân”. Quy luật chảy trôi của tạo hóa dường như đã
bắt nhịp để làm nên bản hòa âm đồng điệu cùng lịch sử dân tộc Việt Nam.
Đó cũng là quy luật tồn tại và phát triển đã trở nên tất yếu của một
dân tộc mà hai từ “Độc Lập”, “Tự Do” phải dùng máu để giành về và cũng
chỉ có thứ vũ khí ấy mới gìn giữ được. Song, một trong những bản tính
tốt đẹp nhất của con người Việt Nam là niềm lạc quan, yêu đời. Phát huy
phẩm chất ấy để tin rằng, khi ý Đảng và lòng dân luôn hòa làm một thì
không có giới hạn nào mà dân tộc ta không thể vượt qua.